Trang chủ > Tin tức > Công nghiệp Tin tức

Phân tích và triển vọng thị trường quang điện nổi ở 10 nước ASEAN

2023-07-17

Theo báo cáo do Phòng thí nghiệm Năng lượng tái tạo Quốc gia Hoa Kỳ (NREL) công bố, quang điện nổi có thể đóng một vai trò quan trọng trong mục tiêu khu vực của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là đạt 35% công suất lắp đặt từ các nguồn tái tạo vào năm 2025.

Báo cáo xác định 7.301 vùng nước (88 hồ chứa và 7.213 vùng nước tự nhiên) phù hợp để triển khai quang điện nổi ở Đông Nam Á. Nhìn chung, tiềm năng quang điện nổi của các hồ chứa là 134-278GW và các vùng nước tự nhiên là 343-768GW.
Báo cáo lưu ý rằng tiềm năng của điện mặt trời nổi thậm chí còn rõ ràng hơn ở các hồ chứa ở Lào và Malaysia.
Trong khi đó, các vùng nước tự nhiên ở Brunei, Campuchia, Indonesia, Myanmar, Philippines, Singapore và Thái Lan thậm chí còn có tiềm năng lớn hơn. Ở Việt Nam, dù là loại thủy vực nào thì tiềm năng đều tương đối ổn định.


Brunei
Brunei phụ thuộc nhiều vào khí đốt tự nhiên, chiếm khoảng 78%, tiếp theo là sản xuất điện than, chiếm 21%. Mục tiêu của nước này là tạo ra 30% điện năng từ năng lượng tái tạo vào năm 2035. Không giống như các nước Đông Nam Á láng giềng, Brunei thiếu công suất lắp đặt và tiềm năng lớn để phát triển thủy điện, điều này hạn chế khả năng tích hợp quang điện nổi với cơ sở hạ tầng thủy điện hiện có của Brunei.
Theo báo cáo, Brunei không có tiềm năng kỹ thuật để xây dựng hệ thống quang điện nổi trên các hồ chứa nhân tạo. Tuy nhiên, đánh giá đã xác định được 18 vùng nước tự nhiên có triển vọng cho các dự án điện mặt trời nổi trong tương lai. Công suất điện mặt trời nổi tiềm năng trên các vùng nước này thay đổi từ 137MW đến 669MW, tùy thuộc vào khoảng cách từ bờ biển.

Campuchia
Campuchia đã đặt mục tiêu tổng công suất lắp đặt vào năm 2030, hướng tới 55% thủy điện, 6,5% sinh khối và 3,5% năng lượng mặt trời, trong đó nhiên liệu hóa thạch dự kiến ​​sẽ chiếm 35% còn lại.
Hiện nay, thủy điện là nguồn điện chính, chiếm khoảng 45% tổng sản lượng điện đến năm 2020. Ước tính tiềm năng quang điện nổi của các hồ chứa Campuchia là 15-29GW, tiềm năng quang điện nổi của các thủy vực tự nhiên là 22- 46GW.
Indonesia
Với nguồn tài nguyên tái tạo dồi dào và mục tiêu đầy tham vọng là đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2060, cơ cấu sản xuất điện của Indonesia hiện chủ yếu dựa vào than (60%), tiếp theo là khí đốt tự nhiên (18%), thủy điện, địa nhiệt và nhiên liệu sinh học (17%). Năng lượng tái tạo và dầu mỏ (3%).
Mặc dù Indonesia có nguồn tài nguyên gió và mặt trời đáng kể nhưng những công nghệ này vẫn chưa được triển khai rộng rãi. Công ty điện lực nhà nước Indonesia PT Perusahaan Listrik Negara có kế hoạch bổ sung khoảng 21GW công suất năng lượng tái tạo từ năm 2021 đến năm 2030, chiếm hơn một nửa công suất mới.
Trong công suất quy hoạch này, thủy điện dự kiến ​​sẽ đóng góp 4,9GW và năng lượng mặt trời dự kiến ​​sẽ đóng góp 2,5GW.
Theo báo cáo, tổng cộng 1.858 vùng nước (bao gồm 19 hồ chứa và 1.839 vùng nước tự nhiên) được xác định là phù hợp cho các dự án quang điện nổi. Đánh giá tiềm năng công nghệ cho thấy công suất điện mặt trời nổi rất đa dạng, từ 170GW đến 364GW.
Nước Lào
Lào đặt mục tiêu năng lượng tái tạo chiếm 30% tổng năng lượng tiêu thụ vào năm 2025.
Theo báo cáo, không giống như hầu hết các nước ASEAN khác, Lào có tiềm năng quang điện nổi trong hồ chứa cao hơn các vùng nước tự nhiên. Điều này có thể là do Lào có nguồn tài nguyên thủy điện trong nước khá lớn.
Xem xét ba hồ chứa được đánh giá trong báo cáo, Lào có tiềm năng điện mặt trời nổi ước tính là 5-10GW. Lào có tiềm năng quang điện nổi trên mặt nước tự nhiên khoảng 2-5GW.
Kết hợp với tiềm năng của hồ chứa, điều này tương đương với phạm vi lớn hơn từ 9-15GW. Tuy nhiên, sau khi sử dụng bộ lọc truyền tải để loại trừ vùng nước gần nhất cách đường dây hơn 25 km, thế năng của hồ chứa vẫn giữ nguyên, trong khi thế năng của vùng nước tự nhiên giảm khoảng 8,4-10,1%, tùy theo điều kiện. giả định khoảng cách từ bờ biển.
Malaysia
Malaysia có kế hoạch tăng công suất năng lượng tái tạo lên 4GW vào năm 2030. Ngoài ra, Malaysia đặt mục tiêu có 31% công suất điện lắp đặt đến từ các nguồn tái tạo vào năm 2025.
Giống như Lào, Malaysia đã chứng tỏ tiềm năng lớn hơn trong việc lắp đặt quang điện nổi trên các hồ chứa với công suất ước tính khoảng 23-54GW và các vùng nước tự nhiên có tiềm năng 13-30GW. Tính đến năm 2021, tổng công suất điện lắp đặt của Malaysia là 39GW.
Một nghiên cứu khác được thực hiện trên sáu địa điểm cụ thể ở Malaysia cho thấy các dự án điện mặt trời nổi có thể tạo ra khoảng 14,5GWh điện mỗi năm. Báo cáo tiếp tục mở rộng phát hiện này bằng cách xem xét tất cả các vùng nước khả thi ở Malaysia, với tiềm năng tạo ra khoảng 47-109GWh sản lượng điện hàng năm từ các dự án điện mặt trời nổi.
Myanmar
Đến năm 2025, mục tiêu của Myanmar là đạt mục tiêu 20% công suất lắp đặt năng lượng tái tạo. Theo Kế hoạch Tổng thể Năng lượng năm 2015 của Myanmar, mục tiêu là tăng tỷ trọng thủy điện trong sản xuất điện từ 50% vào năm 2021 lên 57% vào năm 2030.
Báo cáo chỉ ra rằng tiềm năng quang điện nổi trong hồ chứa của Myanmar tương đối thấp, dao động từ 18-35GW. Để so sánh, tiềm năng của các vùng nước tự nhiên được ước tính vào khoảng 21-47GW. Công suất tiềm năng của cả hai cộng lại đã vượt quá tổng sản lượng điện ở Myanmar. Tính đến năm 2021, tổng sản lượng điện của Myanmar là khoảng 7,6GW.
Sau khi sử dụng bộ lọc truyền dẫn để loại trừ vùng nước gần nhất có đường truyền lớn hơn 25 km, dung tích tiềm năng của hồ chứa giảm 1,7-2,1% và vùng nước tự nhiên giảm 9,7-16,2%, tùy theo khoảng cách. từ giả định bờ biển.
Philippines
Philippines đã đặt ra một số ưu tiên cho ngành điện, bao gồm đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng, đạt được khả năng tiếp cận điện phổ cập vào năm 2022 và lắp đặt 15GW công suất năng lượng tái tạo vào năm 2030.
Năm 2019, Philippines đã khởi động thành công dự án quang điện nổi đầu tiên và việc xây dựng các dự án khác bắt đầu trong những năm tiếp theo. Các đánh giá tiềm năng cho thấy phạm vi công suất cao hơn đáng kể đối với việc lắp đặt điện mặt trời nổi trên các vùng nước tự nhiên, ước tính khoảng 42-103GW, so với các hồ chứa có công suất tiềm năng là 2-5GW.
Dung tích hồ chứa tiềm năng không thay đổi sau khi sử dụng các bộ lọc truyền tải để loại trừ các vùng nước nằm cách đường dây truyền tải gần nhất hơn 25 km. Đồng thời, trữ lượng tiềm năng của các vùng nước tự nhiên giảm khoảng 1,7-5,2%.
Singapore
Singapore đã đề xuất mục tiêu năng lượng tái tạo là đạt 2GW công suất lắp đặt năng lượng mặt trời vào năm 2030 và đáp ứng 30% nhu cầu năng lượng thông qua nhập khẩu điện có hàm lượng carbon thấp vào năm 2035.
Báo cáo đã xác định một hồ chứa và sáu vùng nước tự nhiên ở Singapore có tiềm năng 67-153MW ở các hồ chứa và 206-381MW ở các vùng nước tự nhiên. Tính đến năm 2021, công suất điện lắp đặt của Singapore là 12GW.
Singapore đã thể hiện sự quan tâm lớn đến các dự án quang điện nổi ngoài khơi và gần bờ. Trong lĩnh vực này, Singapore đã xây dựng dự án quang điện nổi công suất 5MW dọc bờ biển.
nước Thái Lan
Thái Lan có kế hoạch xây dựng hơn 2,7GW dự án điện mặt trời nổi trên 9 hồ chứa khác nhau vào năm 2037. Báo cáo cho thấy tiềm năng của quang điện nổi trong các hồ chứa là rất lớn, dao động từ 33-65GW và các vùng nước tự nhiên là 68-152GW. Công suất điện lắp đặt của Thái Lan vào năm 2021 sẽ là 55GW.
Khi bộ lọc truyền tải được sử dụng để loại trừ vùng nước gần nhất cách đường dây hơn 25 km, dung lượng tiềm năng của hồ chứa đã giảm 1,8-2,5% và vùng nước tự nhiên giảm 3,9-5,9%.
Việt Nam
Việt Nam đã đặt mục tiêu đầy tham vọng là triển khai 31-38GW công suất năng lượng mặt trời và gió vào năm 2030, phù hợp với mục tiêu rộng hơn là trung hòa carbon vào năm 2050.
Do phụ thuộc nhiều vào thủy điện, Việt Nam mang lại môi trường thuận lợi cho các dự án điện mặt trời nổi độc lập và kết hợp. Trong số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam có nhiều hồ chứa phù hợp cho quang điện nổi nhất, với tổng số 22 hồ. Tiềm năng quang điện nổi của các hồ chứa này ước tính vào khoảng 21-46GW.
Tương tự, tiềm năng quang điện nổi trên các vùng nước tự nhiên của Việt Nam cũng nằm trong khoảng 21-54GW. Khi sử dụng bộ lọc truyền tải để loại trừ vùng nước gần nhất có khoảng cách hơn 25 km tính từ đường dây truyền tải, dung tích tiềm năng của hồ chứa không thay đổi, trong khi dung lượng tiềm năng của vùng nước tự nhiên giảm dưới 0,5%.
Vào tháng 5, Blueleaf Energy và SunAsia Energy đã được chính phủ Philippines trao hợp đồng để xây dựng và quản lý dự án mà nước này cho là dự án quang điện nổi lớn nhất thế giới với tổng công suất 610,5MW.
Một báo cáo trước đó của NREL đã chỉ ra rằng bằng cách bổ sung các dự án quang điện nổi trên mặt nước cùng với các trạm thủy điện hiện có, chỉ riêng hệ thống quang điện mặt trời có thể tạo ra khoảng 7,6TW năng lượng sạch mỗi năm.

X
We use cookies to offer you a better browsing experience, analyze site traffic and personalize content. By using this site, you agree to our use of cookies. Privacy Policy
Reject Accept